Chấn thương gan là gì? Các công bố khoa học về Chấn thương gan

Chấn thương gan là sự tổn thương, phá hủy hoặc rối loạn chức năng của gan do các nguyên nhân như va đập, chấn động, nhồi máu, vi khuẩn, virus, cơ chế miễn dịch ...

Chấn thương gan là sự tổn thương, phá hủy hoặc rối loạn chức năng của gan do các nguyên nhân như va đập, chấn động, nhồi máu, vi khuẩn, virus, cơ chế miễn dịch hoặc sử dụng quá mức các chất độc hại cho gan. Chấn thương gan có thể làm tăng cường hoạt động của hệ thống bảo vệ miễn dịch và gây viêm nhiễm, hoặc gây ra sự suy giảm chức năng gan, như vi khuẩn nhiềm trùng hoặc tổn thương cấu trúc cơ bản của gan. Chấn thương gan có thể gây ra triệu chứng như đau gan, khó tiêu, mệt mỏi, chảy máu, vàng da và những vấn đề nghiêm trọng hơn có thể đe dọa tính mạng.
Chấn thương gan có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau, bao gồm:

1. Va đập: Gan nằm ở phần dưới của bên phải của ổ bụng, khi có va đập mạnh vào khu vực này, có thể gây tổn thương cho gan. Các tác động mạnh mẽ từ tai nạn giao thông, thể thao, hoặc hành động bạo lực có thể gãy hoặc nứt gan.

2. Chấn động: Chấn động mạnh vào vùng gan cũng có thể gây tổn thương cho gan. Điều này có thể xảy ra trong các tình huống như tai nạn giao thông, va chạm trong các hoạt động thể thao hoặc do các tác động từ các vật cứng.

3. Nhồi máu: Nhồi máu gan xảy ra khi dòng máu đến gan bị ngắt quãng hoặc bị gián đoạn. Điều này có thể xảy ra do các cú đập mạnh vào gan hoặc sau các ca đột quỵ hay tai nạn do động mạch gan bị nghẹt.

4. Nhiễm trùng: Một số loại vi khuẩn và virus có khả năng gây nhiễm trùng gan, gây tổn thương và viêm nhiễm của cơ quan này. Ví dụ, viêm gan virus B và viêm gan virus C là các bệnh nhiễm trùng gan nguy hiểm phổ biến.

5. Overdose các chất độc hại cho gan: Sử dụng quá liều, lạm dụng hoặc ngộ độc các chất thuốc hay các chất độc khác trong thời gian dài có thể gây tổn thương gan. Ví dụ như sử dụng quá mức rượu, thuốc lá, và các chất gây nghiện khác có thể gây viêm và tổn thương gan.

Triệu chứng của chấn thương gan có thể bao gồm:

- Đau hoặc khó chịu ở phần dưới bên phải của ổ bụng.
- Mệt mỏi và kiệt sức.
- Buồn nôn hoặc khó tiêu.
- Chảy máu nội mạc dạ dày.
- Da và mắt bị vàng.
- Mất nhiều máu hoặc thiếu máu.
- Rối loạn tiêu hóa.
- Mạn tính hoặc viêm gan cấp tính.

Trong trường hợp chấn thương gan nghiêm trọng, có thể xảy ra mất máu nội mạc, suy gan nặng, tổn thương đa nội tạng và nguy hiểm tới tính mạng.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "chấn thương gan":

Chấn Thương Gân Achilles Trong Một Dân Số Tại Hoa Kỳ Dịch bởi AI
Foot and Ankle International - Tập 34 Số 4 - Trang 475-480 - 2013
Thông tin nền:

Hầu hết các nghiên cứu về đứt gân Achilles đều liên quan đến quân đội Mỹ hoặc các dân số châu Âu, điều này có thể không phản ánh chính xác tổng thể dân số Hoa Kỳ. Nghiên cứu hiện tại xem xét 406 trường hợp đứt gân Achilles xảy ra trong dân số Hoa Kỳ thông thường để tìm hiểu các mô hình trong một cơ sở chăm sóc thứ ba với sự giới thiệu chuyên khoa.

Phương pháp:

Một nghiên cứu hồi cứu với sự chấp thuận của hội đồng xem xét đạo đức của cơ sở đã được tiến hành trên hồ sơ của 331 (83%) nam (6 trường hợp đứt gân đôi, không đồng thời) và 69 (17%) nữ được chẩn đoán bị đứt gân Achilles trong thời gian 10 năm. Tuổi trung bình là 46,4 năm, với 310 (76%) trường hợp đứt gân được chẩn đoán và điều trị cấp cứu (dưới 4 tuần), trong khi 96 (24%) là mãn tính (hơn 4 tuần sau chấn thương). Bệnh nhân được đánh giá theo cơ chế chấn thương và các yếu tố nguy cơ tiềm ẩn đã được mô tả trước đó. Kết quả được đánh giá theo tuổi (lớn hơn hoặc nhỏ hơn 55 tuổi), chỉ số khối cơ thể (BMI), và thời gian đến chẩn đoán.

Kết quả:

Hoạt động thể thao chịu trách nhiệm cho 275 trường hợp đứt gân (68%). Con số này cao hơn ở những bệnh nhân dưới 55 tuổi (77%) so với những người trên 55 tuổi (42%). Bóng rổ là môn thể thao thường liên quan nhất, chiếm 132 trường hợp đứt gân (48% số trường hợp thể thao đứt gân, 32% tổng số trường hợp), tiếp theo là quần vợt với 52 trường hợp (13%, 9%) và bóng đá với 32 trường hợp (12%, 8%). Tổng cộng có 20 trường hợp đứt gân tái phát của cùng một gân Achilles, trong đó 17 trường hợp đã được điều trị không phẫu thuật trước đó. Trong nghiên cứu này, việc sử dụng quinolone gần đây (2%) và chủng tộc người da đen (31%) không phải là các yếu tố nguy cơ chính dẫn đến đứt gân như được mô tả trong các nghiên cứu khác. Những bệnh nhân lớn tuổi và những người có chỉ số BMI lớn hơn 30 có khả năng bị thương do các hoạt động không thuộc thể thao cao hơn và có khả năng chẩn đoán ban đầu không được công nhận, dẫn đến việc họ trình diện hơn 4 tuần sau chấn thương.

Kết luận:

Trong nghiên cứu này, việc tham gia thể thao là cơ chế phổ biến nhất, nhưng không bằng mức độ như trong các nghiên cứu ở châu Âu hoặc của quân đội Mỹ. Bóng rổ là môn thể thao thường liên quan nhất, so với bóng đá ở châu Âu. Tuổi tác và BMI có mối tương quan tỷ lệ thuận trực tiếp với thời gian đến chẩn đoán.

Cấp độ bằng chứng:

Cấp II, nghiên cứu dịch tễ học.

Các trạng thái sinh tồn như là chỉ số về hiệu suất học tập và stress sinh học ở trẻ em tị nạn: một nghiên cứu cắt ngang với một nhóm so sánh Dịch bởi AI
BMC Psychiatry - Tập 21 - Trang 1-11 - 2021
Mục tiêu của chúng tôi là phát hiện chính xác những trẻ nhỏ có nguy cơ gặp rối loạn tâm lý lâu dài sau những trải nghiệm có thể gây chấn thương trong quá trình di dời. Ngoài việc đánh giá chi tiết về triệu chứng của cha mẹ và trẻ, chúng tôi tập trung vào các hành vi rối loạn trong môi trường giáo dục được tóm tắt như các trạng thái sinh tồn, vì chúng thường dẫn đến việc được giới thiệu điều trị lâm sàng. Chúng tôi đã sàng lọc 52 trẻ em tị nạn trong độ tuổi 3-7 (M = 5.14 năm, SD = 1.17) về các triệu chứng của Rối loạn Stress Sau Chấn Thương (PTSD) bằng cách sử dụng Công cụ Sàng lọc Chấn thương cho Trẻ em và Thanh thiếu niên (CATS) được đánh giá bởi cha mẹ. Sức khỏe tâm thần của cha mẹ được đánh giá bằng Công cụ Sàn lọc Sức khỏe Tị nạn (RHS-15). Hơn nữa, các giáo viên của trẻ được yêu cầu đánh giá các trạng thái sinh tồn bệnh lý của trẻ và chúng tôi đã thực hiện đánh giá tổng quát về triệu chứng của trẻ bằng Bảng hỏi về Điểm mạnh và Khó khăn (SDQ) được đánh giá bởi cha mẹ và giáo viên. Trẻ em trong mẫu tị nạn tham gia một nhiệm vụ học tập về trí nhớ làm việc (Phụ lục Atlantis từ Pin Tính Chất Tâm Hồn trẻ em, KABC-II) và cung cấp mẫu nước bọt để kiểm tra mức cortisol. Đánh giá của cha mẹ về triệu chứng PTSD của con mình có mối liên hệ đáng kể với sự khỏe mạnh tâm thần của chính họ (r = .50, p < .001). Những trẻ có trạng thái sinh tồn trong đánh giá của giáo viên biểu hiện hiệu suất học tập yếu hơn (F = 3.49, p < .05) và mức cortisol vào buổi tối cao hơn (U = 113, z = −1.7, p < .05, một phía). Các trạng thái sinh tồn là những chỉ số hứa hẹn cho hiệu suất học tập và mức độ căng thẳng của trẻ, bổ sung cho đánh giá của cha mẹ về PTSD ở trẻ em, có mối tương quan cao với gánh nặng triệu chứng của chính cha mẹ.
#trẻ em tị nạn #trạng thái sinh tồn #hiệu suất học tập #rối loạn căng thẳng sau chấn thương #cortisol
Nghiên cứu điều trị chấn thương gan tại một số bệnh viện đa khoa tỉnh miền núi phía Bắc
Tóm tắt Mục tiêu: Đánh giá tình hình điều trị chấn thương gan tại các bệnh viện đa khoa tỉnh miền núi phía Bắc. Đối tượng và phương pháp: Tiến cứu mô tả tất cả những trường hợp bệnh nhân được chẩn đoán chấn thương gan tại các bệnh viện đa khoa tỉnh miền núi phía Bắc, trong thời gian từ tháng 1 năm 2010 đến tháng 12 năm 2013. Kết quả: Có 124 bệnh nhân, chủ yếu là nam (78%). Tai nạn giao thông là nguyên nhân hàng đầu gây ra chấn thương gan (61,2%). Chỉ định điều trị bảo tồn 50% trong đó có 16 bệnh nhân chuyển mổ (12,9%). Kỹ thuật chủ yếu được sử dụng trong phẫu thuật là khâu gan (93,6%). Tỷ lệ biến chứng sau mổ gặp 33,3%. Kết luận: Điều trị chấn thương gan tại các tỉnh miền núi phía Bắc đạt kết quả tốt, tỷ lệ điều trị bảo tồn cao, biến chứng sau mổ giảm. Từ khóa: Chấn thương gan, điều trị.  
#Chấn thương gan #điều trị
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BẢO TỒN CHẤN THƯƠNG GAN TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN 115
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 517 Số 2 - 2022
Qua nghiên cứu 140 bệnh nhân chấn thương gan được cấp cứu và điều trị bảo tồn không phẫu thuật tại Bệnh viện Nhân dân 115 từ tháng 01/2016 đến tháng 12/2020. Điều trị bảo tồn chấn thương gan trong nghiên cứu của chúng tôi là phương pháp điều trị an toàn với tỷ lệ thành công là 96,4%, không có trường hợp nào tử vong. Tỷ lệ bảo tồn thành công đối với vỡ gan độ II là 100%, độ III thành công đạt tỷ lệ 96,5% và ở độ IV là 91,1%. Kết quả điều trị bảo tồn: Tốt chiếm tỷ lệ 95,7%; 01 trường hợp kết quả trung bình do biến chứng rò mật phải đặt dẫn lưu ổ bụng và sau đó phải can thiệp ERCP dẫn lưu dịch mật (0,7%); 05 trường hợp kết quả xấu phải chuyển mổ (3,6%).
#Chấn thương gan #điều trị bảo tồn
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG CỦA CHẤN THƯƠNG GAN ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ BẢO TỒN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 517 Số 1 - 2022
Qua nghiên cứu 140 bệnh nhân chấn thương gan được cấp cứu và điều trị bảo tồn không phẫu thuật tại Bệnh viện Nhân dân 115 từ tháng 01/2016 đến tháng 12/2020. Chấn thương gan trong chấn thương bụng kín thường gặp ở độ tuổi 21‒49. Độ tuổi trung bình là 33,5. Số bệnh nhân nam gặp nhiều hơn nữ. Nguyên nhân chính là tai nạn giao thông. Đau bụng là triệu chứng cơ năng hằng định nhất. Mất máu thường ở mức độ nhẹ đến trung bình. Tất cả các trường hợp bênh nhân vỡ gan nhập viện đều có men gan tăng, mức độ tổn thương gan càng nặng thì men gan càng cao. Về vị trí tổn thương gan trên chụp cắt lớp vi tính, phần lớn tổn thương vị trí gan phải, tổn thương hạ phân thùy VI chiếm tỷ lệ cao nhất. Đối với thùy gan trái, tổn thương hạ phân thùy IV thường gặp nhất. Về mức độ tổn thương theo AAST thì độ III thường gặp nhất.
#Chấn thương gan #đặc điểm lâm sàng #cận lâm sàng #điều trị bảo tồn
Chẩn đoán trước bất thường nhiễm sắc thể ở thai mắc tim bẩm sinh liên quan đến quá trình ngăn thân động mạch – nón tim
Tạp chí Phụ Sản - Tập 18 Số 2 - Trang 9-14 - 2020
Mục tiêu: Mô tả bất thường nhiễm sắc thể (NST) liên quan đến bất thường quá trình ngăn thân động mạch – nón tim được chẩn đoán trước sinh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang 109 thai được chẩn đoán dị tật tim bẩm sinh (TBS) liên quan đến quá trình ngăn thân động mạch – nón tim trên siêu âm, được chọc hút dịch ối, sử dụng kỹ thuật BoBs và Karyotype để phân tích NST thai. Kết quả: Các loại dị tật TBS liên quan đến quá trình ngăn thân động mạch – nón: Tứ chứng fallot (63/109 - 57,8%), chuyển chỗ mạch máu lớn (18/109 - 16,5%), hẹp động mạch phổi (10/109 – 9,2%), thất phải hai đường ra (5/109 – 4,6%), thân chung động mạch (2/109 – 1,8%) và các loại bất thường khác liên quan đến động mạch chủ, thất trái (11/109 – 10,1%). Tỷ lệ bất thường NST là 33/109 (30,3%), bất thường về số lượng NST là 14/33 trường hợp và bất thường về cấu trúc NST là 19/33 trường hợp (13 trường hợp hội chứng DiGeorge). Nhóm có bất thường phối hợp cơ quan khác ngoài tim có nguy cơ NST bất thường cao hơn 7.3 lần so với nhóm chỉ có biểu hiện bất thường tại tim, OR = 7.3 (2.6; 20.5), p = 0.0002. Kết luận: Các loại dị tật tim bẩm sinh liên quan đến quá trình ngăn thân động mạch là các dị tật nặng, thai bất thường NST ở nhóm dị tật này chiếm tỷ lệ cao, trong đó hội chứng DiGeorge chiếm phần lớn.
#Bệnh tim bẩm sinh #hội chứng DiGeorge #thân động mạch nón tim #tứ chứng Falllot
Nghiên cứu chẩn đoán chấn thương gan tại một số bệnh viện đa khoa tỉnh miền núi phía Bắc
Tóm tắt Mục tiêu: Đánh giá tình hình chẩn đoán chấn thương gan tại các bệnh viện đa khoa tỉnh miền núi phía Bắc. Đối tượng và phương pháp: Tiến cứu mô tả tất cả những trường hợp bệnh nhân được chẩn đoán chấn thương gan tại các bệnh viện đa khoa tỉnh miền núi phía Bắc, trong thời gian từ tháng 1 năm 2010 đến tháng 12 năm 2013. Kết quả: Có 124 bệnh nhân, chủ yếu trong độ tuổi lao động 16 - 45 (82,3%). Tai nạn giao thông là nguyên nhân hàng đầu gây ra chấn thương gan (61,2%). Chỉ định siêu âm trong 96,2% trường hợp được phẫu thuật và phát hiện được 98,7% dịch ổ bụng và 76% tổn thương gan. Kết luận: Chẩn đoán chấn thương gan tại các tỉnh miền núi phía Bắc cần kết hợp khám lâm sàng và cận lâm sàng trong đó siêu âm đóng vai trò quan trọng. Từ khóa: Chấn thương gan, siêu âm.  
#Chấn thương gan #siêu âm
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ CÁC BIẾN CHỨNG MUỘN CHẤN THƯƠNG GAN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 511 Số 1 - 2022
Chấn thương gan (CTG) là một chấn thương nặng chiếm tỷ lệ cao trong chấn thương bụng kín. Điều trị CTG hiện nay chủ yếu là điều trị bảo tồn (> 80,0%). Tuy nhiên đối với nhũng trường hợp CTG nặng (độ IV, độ V), tổn thương có kích thước lớn, tổn thương nhiều vị trí hoặc có tổn thương đường mật… diễn biến sau điều trị nội khoa hoặc sau phẫu thuật bảo tồn  hay can thiệp cấp cứu CTG (nút mạch cấp cứu cầm máu) vẫn thường xảy ra các biến chứng như chảy máu tái diễn, viêm phúc mạc mật, rò mật, khối tụ dịch mật (bilome), apxe hay hoại tử tế bào gan, tăng áp lực ổ bụng (TALOB)...Tuy nhiên việc xử trí những biến chứng trên còn gặp nhiều khó khăn. Lựa chọn giữa can thiệp dưới hướng dẫn của siêu âm (SA), hoặc dưới hướng dẫn của cắt lớp vi tính, hay phẫu thuật nội soi ổ bụng (PTNS) hay mổ mở hoặc can thiệp nội soi ngược dòng và stent đường mật vẫn còn cần xem xét và nghiên cứu nhiều. Mục tiêu: Đánh giá kết quả chẩn đoán và điều trị các biến chứng muộn sau phẫu thuật bảo tồn hay điều trị nội CTG. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Tất cả những bệnh nhân, không phân biệt tuổi, giới, được chẩn đoán CTG, có biến chứng( sau điều trị bảo tồn hoặc phẫu thuật bảo tồn CTG) được điều trị và hoặc phẫu thuật tại khoa phẫu thuật cấp cứu bụng, BV Việt Đức. Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu mô tả. Kết quả nghiên cứu: Từ năm 2011 tới năm 2017 có 14 bệnh nhân biến chứng muộn của CTG được điều trị tại khoa cấp cứu bụng, bệnh viện Việt Đức bao gồm: Nam 11 (78,6%), nữ 3 (21,4%), tuổi trung bình: 34,4. Thời gian xuất hiện biến chứng từ 72h đến 10 ngày chiếm 71,4%, sau 10 ngày chiếm 21,4 %, từ 24-48h có 1 bệnh nhân (7,2%). Có 5/14 trường hợp biến chứng xảy ra sau mổ bụng cấp cứu (35,7%) và 6/14 trường hợp sau nút mạch gan cấp cứu (42,6%). Tổn thương gan phải đơn thuần là 6 bệnh nhân (42,9%); gan trái là 1 (7,1%) gan phải và gan trái là 7 bệnh nhân (50,0%). CTG độ IV chiếm 11/14 (78,6%), CTG độ V chiếm 2/14 (14,3%) và độ III có 1 bệnh nhân (7,1%). Kết quả điều trị: Không có bệnh nhân nào tử vong, biến chứng sau mổ có 1 bệnh nhân apxe tồn dư sau mổ cắt gan trái được chọc hút dưới siêu âm, 1 bệnh nhân rò mật sau mổ cắt gan phải mở rộng. Kết luận: Các biến chứng muộn của điều trị bảo tồn CTG thường xuất hiện vào ngày thứ 3 đến ngày thứ 10 (71,4% ), hoặc >10 ngày (21,4%). Các biến chứng có thể xuất hiện sau mổ hoặc sau nút mạch khi mạch, huyết áp đã ổn định. Các biến chứng có thể xuất hiện riêng rẽ hoặc phối hợp: Viêm phúc mạc mật, rò mật, tăng áp lực ổ bụng, chảy máu tái diễn, bilome. Đối với TALOB: chọc hút dưới siêu âm cho kết quả tốt. Với viêm phúc mạc mật: PTNS hút rửa ô bụng, dẫn lưu cho kết quả khá tốt. Đối với rò mật: Có thể chọc hút dưới siêu âm, PTNS hút rửa ổ bụng, hay chụp đường mật ngược dòng kết hợp với cắt cơ ODDI và đặt stent đường mật cho kết quả tốt.
Giá trị của cộng hưởng từ 3.0 Tesla trong chẩn đoán chấn thương đám rối thần kinh cánh tay trước hạch
Nghiên cứu mô tả cắt ngang từ 3/2016 đến 7/2020 với 66 bệnh nhân có lâm sàng chấn thương đám rối thần kinh cánh tay, được chụp cộng hưởng từ 3.0 Tesla và phẫu thuật thần kinh tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức và Bệnh viện đa khoa quốc tế Vinmec Times City nhằm mô tả đặc điểm hình ảnh và đánh giá giá trị của cộng hưởng từ 3.0 Tesla trong chẩn đoán chấn thương đám rối thần kinh cánh tay trước hạch. Dấu hiệu chấn thương đám rối thần kinh cánh tay trước hạch trên cộng hưởng từ được mô tả. Giá trị của cộng hưởng từ được phân tích dựa trên sự so sánh với kết quả phẫu thuật. Các dấu hiệu gián tiếp của tổn thương tủy sống ít gặp. Nhổ rễ hoàn toàn và giả thoát vị màng tuỷ có tỷ lệ lần lượt là 52,21% và 39,39%, trong đó rễ C7, C8 là vị trí thường gặp. Độ nhạy, độ đặc hiệu, độ chính xác, giá trị chẩn đoán dương tính, giá trị chẩn đoán âm tính của cộng hưởng từ trong chẩn đoán tổn thương trước hạch lần lượt là 68,39%, 93,14%, 81,52%, 89,83% và 76,89%. Cộng hưởng từ có giá trị trong phát hiện vị trí, mức độ chấn thương trước hạch đám rối thần kinh cánh tay, nên được sử dụng như một phương pháp nhằm cung cấp thêm thông tin trước phẫu thuật.
#đám rối thần kinh cánh tay #chấn thương #cộng hưởng từ #3.0 Tesla
NGHIÊN CỨU GIÁ TRỊ CỦA CHỤP CLVT TRONG CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ BẢO TỒN CHẤN THƯƠNG GAN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 501 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Nghiên cứu giá trị của chụp CLVT trong chẩn đoán và điều trị bảo tồn chấn thương gan. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang hồi cứu, 51 bệnh nhân bị chấn thương gan, tại bệnh viện Nhân Dân 115 từ tháng 1/2017 đến 12/2018. Kết quả: Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu: Nam 70,6%; nữ 29,4%; tuổi trung bình 33,65±14,17; TNGT chiếm 82,4%. Giá trị của cắt lớp vi tính trong điều trị bảo tồn chấn thương gan. Điều trị bảo tồn thành công 82,4%; tắc mạch 9,8%; phẫu thuật 7,8%. Phẫu thuật và tắc mạch chủ yếu có độ tổn thương IV và V, chỉ 01 trường hợp độ III phẫu thuật do tổn thương rách túi mật đi kèm. Trong những trường hợp có huyết động ổn định: tổn thương độ I-II-III điều trị bảo tồn 100%; độ IV với 90% thành công và độ V là 22,2%. Tổn thương rách gan 100% bảo tồn thành công; dập gan 94,7%; dập – rách 72,4%. Tỉ lệ điều trị bảo tồn thành công tỉ lệ nghịch với mức độ dịch tự do trong ổ bụng mức độ: nhiều 50%; vừa 75% và ít 90,3%. Kết luận: CLVT rất có giá trị trong chẩn đoán mức độ chấn thương gan, từ đó đưa ra các phương án điều trị phù hợp cho bệnh nhân. CLVT giúp chỉ định điều trị bảo tồn chấn thương gan được áp dụng nhiều hơn.
#Chấn thương gan #CLVT #điều trị bảo tồn chấn thương gan #nút mạch gan
Tổng số: 64   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7